Đường lây nhiễm giun sán
Cách thức ký sinh trùng gây nhiễm bệnh ở người tùy theo các chủng, loại có thể có các đường lây truyền khác nhau:
Qua đường ăn uống: Do ăn uống các loại thực phẩm như rau sống, thịt lợn, trâu, bò, cá, ếch, nhái, lươn, ốc và uống nước chưa nấu chín mang mầm bệnh giun sán; qua bàn tay bẩn ở trẻ đưa vào miệng; và ăn uống không đảm bảo vệ sinh tại các quán ăn đường phố.
Qua đường da, niêm mạc: Một số loại ấu trùng giun sán trong môi trường đất, nước, bụi bẩn, bón phân trồng rau màu, nuôi cá, tôm,... ấu trùng giun sán có thể chui trực tiếp qua lỗ chân lông, vết trợt trên da, lỗ hậu môn, mắt... vào mạch máu, tim phổi, não, gan và các cơ quan khác.
Đường lây truyền khác: Giun chỉ do muỗi truyền; giun lươn còn có đường truyền nhiễm bất thường là chu kỳ ngược dòng: trong một số điều kiện nhất định, ấu trùng giun lươn dính lại quanh hậu môn phát triển thành ấu trùng có thực quản hình trụ và gây tự nhiễm lại cho người bệnh,…
 |
Xét nghiệm là một phương pháp chẩn đoán nhiễm giun sán (Ảnh minh họa)
|
Các phương pháp chẩn đoán nhiễm giun sán
Cơ thể người có thể bị nhiễm nhiều loại giun sán khác nhau. Trong đó chia thành 2 nhóm: giun sán ký sinh trong ruột và giun sán ký sinh ngoài ruột (trong máu, dưới da, niêm mạc, tim, gan, phổi, não…). Dựa vào đặc điểm sinh học, vị trí ký sinh và triệu chứng lâm sàng cụ thể, người bệnh sẽ được chỉ định các biện pháp chẩn đoán bệnh ký sinh trùng phù hợp.
Xét nghiệm phân: Là một xét nghiệm thường quy để tìm ký sinh trùng đường ruột. Tùy thuộc tính chất của phân ta có thể thực hiện các kỹ thuật như: Kato, Kato Katz, phương pháp làm nổi trứng, phương pháp ly tâm lắng cặn, phương pháp trực tiếp… để tìm trứng, ấu trùng, kén (bào nang), thể hoặt động của ký sinh trùng.
Xét nghiệm máu: Sử dụng phương pháp Elisa để phát hiện kháng thể hoặc kháng nguyên của ký sinh trùng sinh ra khi cơ thể bị nhiễm ký sinh trùng. Kỹ thuật miễn dịch được sử dụng trong các trường hợp mà phương pháp trực tiếp không thể làm được như: Giai đoạn mới nhiễm, ký sinh trùng còn non, chưa đẻ trứng (sán lá gan, sán máng), trong giai đoạn mạn tính, mật độ ký sinh thấp, ký sinh trùng ký sinh trong nội tạng,...
Xét nghiệm khác: Xét nghiệm đờm tìm trứng sán lá phổi; xét nghiệm dịch màng phổi tìm ấu trùng giun lươn ký sinh lạc chỗ ở phổi; xét nghiệm nước tiểu tìm ấu trùng giun chỉ trong trường hợp bệnh nhân đái ra dưỡng chấp (hiếm)…
Phương pháp nội soi, siêu âm: Trong một số trường hợp, do đặc điểm sinh học khác nhau của một số loại giun, sán mà các phương pháp xét nghiệm thông thường không thể hoặc khó phát hiện mầm bệnh. Người ta đã sử dụng các phương pháp thích hợp hơn như: siêu âm, nội soi để tìm ký sinh trùng ký sinh trong nội tạng. Phương pháp nội soi dạ dày tìm ký sinh trùng lạc chỗ từ ruột non chui lên; hay siêu âm là kỹ thuật hay được sử dụng, có độ an toàn và chính xác cao, thường được sử dụng trong chẩn đoán bệnh sán lá gan, giun chui ống mật, sán chó…
Các phương pháp khác: chụp X - quang, chụp CT… những kỹ thuật này được sử dụng để tìm một số loại giun sán ký sinh và gây ra tổn thương trong các cơ quan như: tim, gan, phổi, não, ruột, cơ…..
Theo khuyến cáo của Tổ chức Y tế thế giới WHO, mọi người nên đi làm xét nghiệm định kỳ bệnh giun sán từ 6 tháng đến 1 năm một lần. Đặc biệt chú ý làm xét nghiệm kiểm tra với trẻ em. Đối tượng này dễ nhiễm giun sán do còn chưa có ý thức trong vệ sinh hàng ngày. Hậu quả từ việc nhiễm giun sán với trẻ khá lớn như còi xương, suy dinh dưỡng, kém tiếp thu, kém tập trung. Vì vậy nên kiểm tra, phòng tránh, phát hiện và xử trí tình trạng này ở trẻ sớm nhất có thể./.
Đỗ Hằng (tổng hợp)